Sau khi thành công trong chuyển đổi diện tích lúa 3 vụ sang 2 vụ ăn chắc, đưa cơ giới hoá vào sản xuất từ đó lực lượng lao động dôi dư nông nhàn nhiều. Tranh thủ sự hổ trợ của cấp trên huyện đã thực hiện nhiều chính sách tạo việc làm, như đào tạo nghề, giới thiệu lao động nông thôn vào làm việc ở các khu, cụm CN, cho vay phát triển làng nghề TTCN, vay đầu tư làm kinh tế trang trại, gia trại, trồng rừng… Chỉ tính 9 tháng đầu năm nay doanh số cho vay của Ngân hàng CSXH với tổng dư nợ cho vay lên 184.666 triệu đồng (trong đó, cho vay hộ nghèo 65.312 triệu đồng, cho vay giải quyết việc làm 7.344 triệu đồng…), các tổ chức quỹ tín dụng dư nợ cho vay 73.897 triệu đồng. Huyện còn chú trọng công tác quy hoạch và đầu tư phát triển cụm, điểm CN, đẩy mạnh việc cải cách hành chính theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính, tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong kinh doanh đầu tư sản xuất CN-TTCN vào địa bàn huyện. Nhờ vậy, cơ sở hạ tầng cụm CN Phước An giai đoạn 1 trên diện tích 26 ha được lấp đầy với 11 Doanh nghiệp ( 6 DN chế biến gỗ xuất khẩu, 1 DN sản xuất nhang xuất khẩu, 3 DN sản xuất nhựa và 1 DN sản xuất xốp) đi vào hoạt động từ năm 2004 cho đến nay thu hút hơn 1.500 lao động vào làm việc. Giá trị sản xuất của cụm CN này 9 tháng đầu năm 2011 chiếm tới 21% tổng giá trị SX công nghiệp trên toàn huyện. Cụm CN Phước An đang được huyện đầu tư mở rộng giai đoạn 2 và đã thống nhất vị trí, diện tích cho Công ty Cổ phần xây dựng 47 thuê 25.839 m2 đất. Huyện còn xúc tiến quy hoạch chi tiết cụm CN Phong Tấn (xã Phước Lộc) với quy mô diện tích 24 ha, điểm TTCN xã Phước Hưng quy mô diện tích 5 ha.
Bên cạnh, sự ra đời và phát triển của cụm CN Phước An, dọc theo tuyến tỉnh lộ 638 và tuyến quốc lộ 1A, quốc lộ 19, tỉnh lộ 640 – 636B cũng mọc lên nhiều cơ sở sản xuất CN-TTCN. Chỉ tính riêng trên tỉnh lộ 638 thuộc xã Phước An và xã Phước Thành có hơn chục nhà máy, xí nghiệp xây dựng và đi vào hoạt động với đủ các ngành nghề: chế biến nông – lâm sản, đá granite giải quyết cả nghìn lao động.
Đồng thời, với 3 làng nghề (làng nghề bánh tráng Kim Tây – xã Phước Hoà; làng nghề chiếu cói Lạc Điền và An Lợi – xã Phước Thắng) truyền thống đã được tỉnh công nhận hiện hoạt động sản xuất ổn định, sản phẩm làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó, giải quyết việc làm thường xuyên cho hơn 1.600 lao động, giá trị sản xuất đạt khoảng 18 – 23 tỉ đồng/năm. Toàn huyện đến nay phát triển lên 2.600 cơ sở sản xuất CN-TTCN, tăng trên 45% số cơ sở sản xuất CN-TTCN so năm 2005 với cơ cấu ngành nghề đa dạng từ chế biến nông – lâm – thuỷ sản, đến chế biến nhựa, đồ gỗ, làm nhang, may mặc, sản xuất bánh tráng bằng máy… giải quyết hơn 10 nghìn lao động tại chỗ. Các sản phẩm làng nghề ở Tuy Phước không chỉ tiêu thụ trong tỉnh mà còn vươn ra cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
Nhìn chung sản xuất CN – TTCN có bước phát triển, giải quyết được việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương. Theo đánh giá chung thì kinh tế huyện Tuy Phước tuy có tăng trưởng nhưng chậm, giá cả một số nguyên liệu đầu vào (điện, xăng dầu, lãi suất vay ngân hàng,…) tăng nên hoạt động của một số doanh nghiệp trên địa bàn huyện gặp không ít khó khăn; việc xây dựng phương án giải phóng mặt bằng giai đoạn 2 cụm CN Phước An và chợ Diêu Trì mới còn chậm… Để khắc phục những tồn tại và với sự nổ lực không ngừng Tuy Phước đang phát huy lợi thế sẵn có tiếp tục tạo cơ chế thông thoáng trong đầu tư đẩy mạnh phát triển CN – TTCN, tăng cường công tác đào tạo nghề giải quyết hữu hiệu việc làm, nâng cao đời sống cho người dân.
Tác giả bài viết: Xuân Thức
Ý kiến bạn đọc